Quốc dân Đại hội Tân Trào - tiền thân của Quốc hội Việt Nam
Ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh (Việt Nam Độc lập đồng minh hội) đã khai mạc đại hội đại biểu quốc dân (còn gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc - Trung - Nam đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào để bàn kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Đại hội đại biểu quốc dân đã thông qua 3 quyết định lớn: thành lập “Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam” do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, Quốc ca là bài Tiến quân ca. Thay mặt Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước”. Quốc dân Đại hội Tân Trào là mốc son trong lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam, là tiền thân của Quốc hội Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội
(Ảnh: Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Những quyết định đi đến ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam và một số kết quả của cuộc Tổng tuyển cử
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám giành được nhiều thắng lợi. Chính quyền trong cả nước thuộc về nhân dân. Ngày 25/8/1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng do Quốc dân đại hội Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam.
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam. Từ ngày 8/9 đến ngày 02/12/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh có liên quan đến cuộc Tổng tuyển cử. Ngày Tổng tuyển cử là ngày 06/01/1946. Việc tổ chức Tổng tuyển cử được chuẩn bị chu đáo, công khai đến tận làng xã.
Đáp lời kêu gọi của Tổ quốc, bằng ý chí sắt đá của một dân tộc quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được, toàn thể nhân dân Việt Nam từ miền xuôi đến miền ngược, từ miền Bắc đến miền Nam, từ nông thôn đến thành thị, không phân biệt gái trai, già trẻ, đã dành trọn ngày lịch sử - ngày 06/01/1946: Toàn dân đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội.
Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên diễn ra trong cả nước, kể cả các vùng có chiến sự ở Nam bộ, Nam Trung bộ và Tây nguyên. Ở Hà Nội đã có 91,95% cử tri đi bỏ phiếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất (98,4%). Cuộc Tổng tuyển cử đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau, 43% số đại biểu không đảng phái; 87% só đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu dân tộc thiểu số.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam năm 1946 được tiến hành theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.
Các kỳ Quốc hội
Quốc hội khóa I (1946 - 1960): trong khóa I, Quốc hội đã thông qua danh sách các thành viên Chính phủ liên hiệp kháng chiến lập ra Cố vấn đoàn, Kháng chiến ủy viên hội; bầu Ban Thường trực Quốc hội do ông Nguyễn Văn Tố làm Trưởng Ban; mở rộng thành phần Quốc hội thêm 70 đại biểu Việt Quốc, Việt Cách không qua bầu cử.
Để sự lãnh đạo và điều hành đất nước được tập trung thống nhất, Quốc hội đã giao quyền hạn tập trung vào Chính phủ. Ban Thường trực Quốc hội luôn ở bên cạnh Chính phủ để bàn bạc, tham gia ý kiến về các chủ trương, chính sách lớn và giám sát, phê bình Chính phủ về mọi công việc kháng chiến. Đặc biệt, Quốc hội khóa I đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Hiến pháp 1946 với 240/242 đại biểu biểu quyết tán thành. Đây là bản Hiến pháp phản ánh bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Quốc hội lập hiến do toàn dân bầu ra ngày 06/01/1946 trở thành Quốc hội lập pháp và kéo dài nhiệm kỳ hoạt động (khóa I) đến năm 1960.
Năm 1959, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp mới, quy định rõ ràng và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của Quốc hội. Về cơ cấu tổ chức, Quốc hội gồm Ủy ban Thường vụ (UBTV) Quốc hội, Ủy ban dự án Luật, Ủy ban kế hoạch về Ngân sách và những ủy ban khác phù hợp với tình hình thực tế. UBTV Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các ủy viên.
Quốc hội khóa II (1960 - 1964): tổ chức ngày 08/5/1960; có 453 đại biểu, trong đó có 91 đại biểu miền Nam lưu nhiệm. Trong nhiệm kỳ, Quốc hội đã thông qua 6 đạo luật quan trọng về tổ chức của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương. UBTV Quốc hội đã ban hành 9 pháp lệnh, thông qua kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).
Quốc hội khóa III (1964 - 1971): tổ chức bầu ngày 26/4/1964; có 453 đại biểu, trong đó có 87 đại biểu Quốc hội khóa I thuộc các tỉnh phía Nam được lưu nhiệm. Quốc hội đã thông qua nghị quyết giao thêm một số quyền hạn cho UBTV Quốc hội. Theo đó, những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác lớn về chống Mỹ, cứu nước, về chính sách kinh tế thời chiến, về đối ngoại đều được Chính phủ kịp thời báo cáo với Quốc hội hoặc UBTV Quốc hội phê chuẩn nhanh chóng.
Quốc hội khóa IV (1971 - 1975): tổ chức bầu ngày 11/4/1971, tổng số có 420 đại biểu. UBTV Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu các kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế…
Quốc hội khóa V (1975 - 1976): tổ chức bầu ngày 06/4/1975, tổng số có 424 đại biểu. Quốc hội khóa V đã góp phần quan trọng trong việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước. Ngày 27/10/1975, UBTV Quốc hội đã họp phiên đặc biệt để thảo luận, thông qua đề án thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, cử đoàn đại biểu miền Bắc tham dự Hội nghị hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam. Các đại biểu ở đoàn của hai miền đều khẳng định: “Cần hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập đân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thống nhất trọn vẹn vững chắc nhất”.
Quốc hội khóa VI (1976 - 1981): tổ chức bầu ngày 25/4/1976, là Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất; tổng số có 492 đại biểu. Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI; đổi tên nước là CHXHCN Việt Nam; quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca; chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh; quy định thủ đô là Hà Nội; thông qua bản Hiến pháp mới của nước CHXHCN Việt Nam. Hiến pháp 1980 đã có sự điều chỉnh lớn về cơ cấu tổ chức của Quốc hội, đó là việc thiết lập Hội đồng Nhà nước thay cho chế định UBTV Quốc hội và lần đầu tiên Hiến pháp quy định chức danh Chủ tịch Quốc hội. Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước CHXHCN Việt Nam.
Quốc hội khóa VII (1981 - 1987): tổ chức bầu vào ngày 26/4/1981; tổng số có 496 đại biểu. Quốc hội khóa VII với 12 kỳ họp và ban hành 10 đạo luật, 35 Nghị quyết; Hội đồng Nhà nước ban hành 15 pháp lệnh. Quốc hội đã triển khai thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: thành lập các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, thông qua các Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm; quyết định các vấn đề cử và miễn nhiệm một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng. Hoạt động giám sát cũng được Quốc hội và Hội đồng nhân dân coi trọng thực hiện.
Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992): tổ chức bầu ngày 19/4/1987; tổng số có 496 đại biểu. Đây là Quốc hội của giai đoạn đầu sự nghiệp đổi mới đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra. Quốc hội đã thông qua 2 bộ luật, 25 đạo luật; Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh. Quốc hội cũng đã thông qua Hiến pháp mới. Ngoài việc thể hiện ý chí và nguyện vọng của Nhân dân như các Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CHXH và tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới.
Quốc hội khóa IX (1992 - 1997): tổ chức bầu ngày 19/7/1992; tổng số có 395 đại biểu. Quốc hội khóa IX hoạt động theo quy định của Hiến pháp 1992, trong đó có vai trò quan trọng về việc thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội lần thứ VII của Đảng đề ra. Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ 5 năm (1996 - 2000). Quốc hội khóa IX đã ban hành 36 luật, bộ luật; UBTV Quốc hội ban hành 43 pháp lệnh. Quốc hội đã chú ý đến công tác dân nguyện, tiếp dân và giải quyết đơn thư của Nhân dân.
Quốc hội khóa X (1997 - 2002): tổ chức bầu ngày 20/7/1997; tổng số có 450 đại biểu. Quốc hội đã ban hành 01 bộ luật, 31 luật; UBTV Quốc hội ban hành 39 pháp lệnh; ban hành Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, nhằm thể chế hóa đường lối của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Quốc hội ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: Quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia; tổ chức bộ máy và nhân sự của các cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; các vấn đề bảo đảm an ninh, quốc phòng. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội được triển khai chủ động trên nhiều địa bàn, với nhiều chủ thể khác nhau nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước.
Quốc hội khóa XI (2002- 2007): tổ chức bầu ngày 19/5/2002; tổng số có 498 đại biểu. Trong nhiệm kỳ này, số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách đã tăng lên đáng kể. Quốc hội đã ban hành 84 luật, bộ luật; UBTV Quốc hội ban hành 31 pháp lệnh. Chất lượng các dự án luật, pháp lệnh được thông qua đã bám sát yêu cầu của cuộc sống, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm và phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội. Hoạt động giám sát có bước đổi mới, nội dung giám sát tập trung vào một số vấn đề bức xúc được dư luận phản ánh và nhân dân quan tâm.
Quốc hội khóa XII (2007- 2011): tổ chức bầu ngày 20/5/2007; tổng số có 493 đại biểu. Quốc hội thành lập mới Ủy ban Tư pháp, tách Ủy ban Kinh tế - Ngân sách thành Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách. Quốc hội đã ban hành 68 luật, 12 Nghị quyết; UBTV Quốc hội ban hành 13 pháp lệnh và 7 nghị quyết. Các văn bản pháp luật đã ban hành hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ, đáp ứng yêu cầu điều hành quản lý và điều hành kinh tế - xã hội của đất nước. Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục được cải tiến mạnh mẽ theo hướng tập trung hơn, thực chất hơn, phản ánh sát thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri; chỉ ra trách nhiệm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nghị quyết của Quốc hội.
Quốc hội khóa XIII (2011- 2016): tổ chức bầu ngày 22/5/2011. Đây là lần đầu tiên cử tri cả nước tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cùng một ngày với quy mô lớn, bầu ra 500 đại biểu Quốc hội. Thành tựu lớn nhất của Quốc hội khóa XIII là đã thông qua Hiến pháp năm 2013, thể hiện tinh thần đổi mới sâu sắc, tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội trên nền tảng dân chủ, pháp quyền và tạo động lực mạnh mẽ để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Quốc hội và UBTV Quốc hội đã xem xét, thông qua 100 luật, bộ luật, 10 pháp lệnh và nhiều nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật.
Quốc hội khóa XIII đánh dấu mốc lịch sử khi lần đầu tiên tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; lần đầu tiên tất cả các thành viên Chính phủ, từ Thủ tướng, các Phó Thủ tướng đến các bộ trưởng, trưởng ngành đều đăng đàn trả lời chất vấn trước Quốc hội; lần đầu tiên Quốc hội đã ban hành nghị quyết về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoạt động giám sát chuyên đề, chất vấn và trả lời chất vấn theo hướng rõ vấn đề, rõ địa chỉ. Tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Quốc hội được tăng cường. Việc tăng thời lượng phát thanh, truyền hình trực tiếp các phiên họp của Quốc hội tại Hội trường, các phiên chất vấn của UBTV Quốc hội, hoạt động báo cáo giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã tạo điều kiện đưa hoạt động của Quốc hội gần hơn với người dân.
Quốc hội khóa XIV (2016- 2021): tổ chức bầu ngày 22/5/2016 với 99,35% cử tri đi bỏ phiếu, bầu ra 494 đại biểu Quốc hội. Quốc hội đã ban hành 65 luật và 99 nghị quyết, trong đó có nhiều đạo luật quan trọng nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Nội dung giám sát mang tính thiết thực, bao trùm hoạt động kinh tế và đời sống xã hội. Quốc hội đã trực tiếp thành lập các đoàn giám sát chuyên đề. Một số quyết định mới phù hợp ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, tạo ra những tác động tích cực như: điều chỉnh quy định sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) cấp quốc gia; dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành; dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020…
Hoạt động đối ngoại của Quốc hội phát huy vai trò là kênh đối ngoại quan trọng, vừa mang tính đối ngoại Nhà nước, vừa mang tính nhân dân sâu sắc, đóng góp tích cực vào thành công chung trong việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã thể hiện vai trò thành viên chủ động, tích cực, đối tác tin cậy và trách nhiệm của Việt Nam và Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần quan trọng duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới.
Nhiệm kỳ này đã đánh dấu bước tiến vượt bậc của Quốc hội trong việc áp dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Quốc hội. Lần đầu tiên sử dụng phần mềm hỗ trợ hoạt động của đại biểu Quốc hội trên các thiết bị thông minh được đưa vào sử dụng với nhiều tính năng thông minh, như: cung cấp các tài liệu kỳ họp, tìm kiếm nhanh các tài liệu bằng giọng nói. Việc đổi mới cách thức thảo luận từ Quốc hội “tham luận” sang Quốc hội “tranh luận” cũng là một điểm nhấn quan trọng của nhiệm kỳ này.
Kỷ niệm 75 năm Ngày Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội Việt Nam (06/01/1946 - 06/01/2021) là dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại lịch sử hình thành và phát triển; ghi nhận những thành tựu và rút ra những bài học kinh nghiệm mà Quốc hội nước ta đã đạt được trong 75 năm qua; góp phần nâng cao nhận thức của Nhân dân về Quốc hội và hoạt động của Quốc hội.
Khánh Thiện
(Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương - Văn phòng Quốc hội)